Dưới đây là Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy có kết thúc vô cùng xót xa. Hôm nay xin mời các thầy cô và các bạn cùng tham khảo Bài văn mẫu lớp 10 của Viknews: Hãy tưởng tượng sau khi chết Trọng Thủy sẽ gặp lại Mị Châu ở dưới thủy cung.
Phần hướng dẫn này gồm các bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 10 tham khảo. Để qua đây các bạn nhanh chóng biết cách tưởng tượng, viết tiếp câu chuyện tình còn dang dở nơi cõi trần gian. Tiếp theo sau đây là nội dung chi tiết tài liệu, mời các bạn theo dõi tại đây.
Bạn đang xem bài: Văn mẫu lớp 10: Hãy tưởng tượng sau khi chết Trọng Thủy sẽ gặp lại Mị Châu ở dưới thủy cung
Video tưởng tượng cảnh trọng thủy gặp lại mị châu
Bài văn mẫu : Hãy tưởng tượng mình là Mị Châu, kể lại câu chuyện thần và Trọng Thuỷ
Tôi là Mị Châu, con gái yêu của vua An Dương Vương. Người con gái được vua cha yêu thương hết mực nhưng cũng gieo vạ lớn cho cha và đất nước vì nhẹ dạ và ngây thơ tin người. Câu chuyện của tôi là một bài học đắt giá để người đời soi vào, lấy đó làm lời răn về sự cảnh giác. Cho đến tận bây giò cái cảm giác đau đớn vì bị phản bội vẫn còn âm ỉ trong tôi. Các bạn chia sẻ cùng tôi nhé.
Sau khi giúp cha tôi xây thành cổ Loa, thần Kim Quy cho cha tôi một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. Cha tôi chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Cao Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mối xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nôi. Cha quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.
Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thòi cơ. Triệu Đà thấy dùng binh không được, bèn xin giảng hòa với cha tôi, sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần. Điều này thì về sau, khi quân đà kéo sang và nỏ thần không còn hiệu nghiệm, cùng cha bỏ trông tôi mới vỡ lẽ. Trong những ngày đi lại để giả kết tình hoà hiếu, Trọng Thuỷ gặp tôi, con gái yêu của An Dương Vương. Lúc bấy giò tôi là một cô gái mới lớn, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng. Trọng Thuỷ đem lòng yêu tôi, tôi dần dần cũng xiêu lòng. Và dần trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành mà tôi không dẫn người yêu đến xem. Cha tôi không nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả tôi cho Trọng Thuỷ. Chàng sang hẳn cung điện của cha tôi, cùng chung sống. Một đêm trăng sao vằng vặc, tôi và Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất. Trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thuỷ hỏi: Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được? Tôi vô tư đáp:
– Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thê còn có kẻ nào đánh nổi được?
Chàng ngỏ ý muôn xem chiếc nỏ. Tôi không ngần ngại, ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu, rồi đưa cho tôi cất đi.
Sau đó, Trọng Thủy xin phép cha tôi về Nam Hải, Trọng Thủy thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một chiếc lẫy nỏ giống hệt của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng Thủy giấu vào trong áo, lại trở sang Âu Lạc. Cha vốn chiều tôi, thấy con gái mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ sung sướng, liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn cha và tôi say túy lúy. Thừa lúc bố vợ say, Trọng Thủy lẻn ngay vào phòng tháo lấy cái lẫy bằng móng chân thần Kim Quy và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào. Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, tôi hỏi:
– Chàng như có gì lo lắng phải không?
Trọng Thủy đáp: Ta sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngày để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Tôi buồn rầu lặng thinh, Trọng Thủy nói tiếp: Bây giò đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giò gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?
Tôi tin lời chàng ngay, lòng đau đớn nói:
– Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm.
Nói xong tôi nức nở khóc. Về đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa cái móng rùa vàng cho cha. Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà đã ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin bao, cha cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, cha sai đem nỏ thần ra bắn thì không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, để tôi ngồi sau lưng, phi thoát ra cửa sau.
Ngồi sau lưng cha, tôi bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.
Đường núi gập ghềnh hiểm trỏ, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bò biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Thấy đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biển, khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng:
Nói rồi Mạnh Bà đột nhiên biến mất, chỉ để lại một rừng hoa Bỉ Ngạn, đỏ rực. Trọng Thủy đau đớn, ngã khuỵu, chỉ biết thều thào cảm tạ Mạnh Bà, rồi lên đường tìm kiếm hồn Mị Châu. Sau nhiều năm lang bạt, bôn ba, Trọng Thủy cũng tìm được đến bờ Đông Hải, xuống tới Thủy cung, Trọng Thủy cũng phải thấy choáng ngợp vì cảnh sắc tráng lệ và rực rỡ. Vốn là dòng dõi vương giả nhưng cả đời chàng cũng chưa từng thấy kiểu trang trí xa hoa thế này bao giờ, cung điện chẳng phải xây từ ngói gạch, mà trông như những hang động rộng lớn, hoa văn chạm khắc tinh xảo trên những vách đá trắng ngà. Ở sâu dưới mặt nước, lại thiếu ánh sáng mặt trời nhưng lòng cung lúc nào cũng sáng rực, tất cả là nhờ hằng hà sa số các viên minh châu được đặt để khắp nơi, trên vách tường, dưới mặt đất. Xung quanh chỗ nào cũng thấy các dải san hô xếp san sát, muôn hình vạn trạng chẳng từ ngữ nào có thể diễn tả được quang cảnh mà Trọng Thủy nhìn thấy khi ấy. Đang ngơ ngẩn, thì Trọng Thủy bị thủy quân bắt được, cho rằng chàng có ý đồ bất chính, họ dẫn chàng đến trước mặt vua Thủy Tề.
Đúng lúc, Thủy cung đang tổ chức tiệc sinh nhật cho công chúa, Long Vương thấy có kẻ lạ đột nhập thì không vui, nổi giận:
– Người này ở đâu ra, làm mất hết nhã hứng của bổn vương và công chúa, thật không ra thể thống gì!
Người dẫn đầu trong đám cận vệ, quỳ tâu:
– Dạ bẩm bệ hạ, chúng thần đi tuần quanh thì bắt được tên này đang ngó nghiêng, bộ dáng hết sức khả nghi, mà tra hỏi thì hắn cái gì cũng không biết, nên đưa đến đây để người quyết định ạ.
– Cho ngươi lui, người đang quỳ kia ngẩng đầu lên cho bổn vương xem.
Trọng Thủy lặng lẽ ngẩng đầu lên, đối diện với Long vương, bỗng nhiên có tiếng chén rơi vỡ phát ra “choang”. Long Vương quay sang nhìn, thì thấy công chúa thần sắc tức giận, mắt ngấn nước, hai tay nắm chặt vạt áo, run run. Long Vương thấy thế càng thêm nghi ngờ, gặng hỏi:
– Ngươi từ đâu tới đây, có ý đồ gì, nếu không muốn mất mạng thì nhanh khai rõ sự tình.
Trọng Thủy bình tĩnh thưa:
– Thảo dân vốn là con trai Triệu Đà, vua nước Triệu, vì một số nguyên nhân mà sau khi chết đi, muốn xuống đây tìm một người con gái tên là Mị Châu để thỉnh tội, kính xin ngài lượng thứ vì đã không mời mà đến, phá hỏng buổi tiệc.
Long Vương, bất ngờ quay sang công chúa, hỏi:
– Mị Châu, con và hắn có quen biết chăng, sao hắn lại mạo muội đến tận đây tìm?
Lúc này nàng công chúa mắt ngọc mày ngài, mới lặng lẽ lau nước mắt, đáp:
– Thưa phụ vương, hắn là người khi xưa con còn tại thế có một mối ân oán sâu nặng, kính xin phụ vương cho con gặp riêng hắn để giải quyết nốt mối nghiệt duyên còn vương vấn chưa giải. Rồi con sẽ thưa lại hết tất cả sự tình cho người!
– Được rồi, con lui xuống đi, cứ từ từ nói chuyện đừng để tổn hại sức khỏe, con mới ốm dậy không lâu. Nếu hắn có gì bất kính với con ta sẽ trị tội hắn thích đáng.
Nói rồi, Long Vương cho người cởi trói cho Trọng Thủy, rồi ra hiệu cho một vài người hầu đi theo chàng và Mị Châu để tránh bất trắc. Mị Châu hành lễ tạ Long Vương rồi lẳng lặng rời khỏi, nét mặt u sầu. Trọng Thủy theo sau cũng chẳng khá khẩm hơn là bao, bao nhiêu lời muốn nói cứ nghẹn ứ trong cổ, không tài nào thốt ra. Bởi, dù nói câu gì đi chăng nữa Trọng Thủy cũng cảm thấy thật xấu hổ. Đến một lương đình vắng vẻ, Mị Châu ra hiệu cho người hầu lui hết, chỉ còn nàng và Trọng Thủy. Nàng đứng quay lưng về phía Trọng Thủy, im lặng một lúc lâu mới lên tiếng:
– Chẳng lẽ, ngươi lúc còn sống hành hạ, giày xéo tâm can ta, hại ta chưa đủ thê thảm hay sao mà còn theo tìm tới tận đây? Không lẽ, ngươi muốn hại ta thêm lần nữa mới hả lòng hả dạ?
Trọng Thủy lắc đầu liên tục, rồi quỳ sụp xuống, cúi đầu vô cùng khổ sở:
– Không, không phải vậy đâu, nàng đã hiểu lầm ta rồi. Từ lúc nàng chết ta đã hối hận khôn cùng, ta đâu biết đôi ta sẽ có ngày này đâu. Mị Châu nàng ơi, ta từ chối canh Mạnh Bà chỉ để đi tìm nàng, chỉ để cầu xin nàng khoan thứ, có thế mối hối hận ngàn năm trong tìm ta mới có thể nguôi ngoai.
– Mị Châu nàng ơi! Ta đã đi tìm nàng theo dấu lông ngỗng từ ngày ấy. Ta biết nàng hận ta nhưng hãy cho ta cơ hội giãi bày!
Trời ơi vẫn giọng nói trầm ấm thân thương ấy. Nhưng không thể tin lời nữa. Tôi xua đuổi:
– Tôi không còn lòng tin vào người nữa. Bây giờ tôi cũng không còn gì cho ngươi cả. Hãy đi đi, đừng bao giờ xuất hiện và làm vết thương trong lòng ta thêm đớn đau!
Trọng Thủy vẫn một mực tha thiết. Chàng đuổi kịp tôi và quỳ xuống van xin:
– Ta biết nàng hận ta nhiều lắm, ta cũng biết không thể nào chuộc được lỗi lầm đã gây ra. Nhưng xin nàng hãy cho ta tỏ bày lòng mình. Rồi chàng kể:
– Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa thành, còn ta một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm vợ. Đến gần bờ biển, thấy xác nàng nằm trên đám cỏ. Tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Ta đớn đau, khóc ngất đi, trong lòng như cắt, rồi thu nhặt thi hài nàng đem về chôn trong thành. Không còn nàng, ta cũng chả thiết sông nữa. Bổn phận với cha ta đã xong, rồi ta đâm đầu xuống giếng trong thành mà xưa kia nàng thường tắm để chết cùng nàng.
Đến đây tôi chợt hiểu vì sao chàng có mặt ở Thủy cung. Chàng từ bỏ danh vọng, từ bỏ chiến thắng, từ bỏ cả vua cha, ngai vàng để tìm tôi. Nhưng nỗi uất hận trong tôi không dễ gì nguội vơi. Xót xa, tôi hỏi chàng:
– Chàng yêu thiếp như thế sao nỡ lợi dụng lòng tin và tình yêu trong sáng của thiếp?
– Đấy là sai lầm lớn nhất của đời ta. Tuổi trẻ và sự nông nổi khiến cho ta chỉ biết nghe theo lòi cha một cách mù quáng. Giá như được trở lại những ngày tháng ấy, thay vì trộm nỏ thần để báo hiểu ta sẽ giúp hai người cha trút bỏ hận thù và mộng xâm lược. Ta sẽ không phạm tội với nàng, không mất nàng, không phải sông trong đau đớn, giày vò. Đòi này ta nguyện chỉ yêu mình nàng. Trong lòng ta không có hình ảnh người đàn bà nào khác nàng có biết không?
Chàng nói trong nước mắt. Tôi cũng khóc và chợt hiểu rằng cả hai chúng tôi đều là nạn nhân, là người bị lợi dụng mà thôi. Tôi gục vào vai chàng, những uất nghẹn trong lòng tôi bao năm qua theo nước mắt đẫm ướt áo chàng. Dù là kẻ tội lỗi với cha, với đất nước nhưng tôi vẫn tha thiết mong nhận được sự cảm thông. Tôi biết trái tim mình không “nhầm chỗ để trên đầu” như người ta nói. Tôi cũng muốn nói với các bạn trẻ rằng: Đừng bao giờ mắc sai lầm như tôi và Trọng Thủy cả. Hãy sông bằng tình yêu thay cho toan tính và hận thù!
Xem thêm : Nội dung chính của bài những cánh buồm
Về trang chủ: TH Huỳnh Ngọc Huệ
Bài viết thuộc danh mục: Tổng hợp