Đồng chí là một trong những bài thơ nói về chiến tranh và tình cảm người lính trong thời chiến hay và ấn tượng nhất. Đây cũng là bài thơ làm nên tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu. Hãy cùng thuvienhoidap.net tìm hiểu cách phân tích bài thơ đồng chí hay nhất, ấn tượng nhất, ngắn gọn nhất.
Cách lập dàn ý phân tích bài thơ đồng chí
Để tóm tắt và nắm vững toàn bộ các luận điểm, luận cứ trong bài thơ đồng chí, bước đầu tiên thì các bạn cần lập dàn ý trước tiên, cách lập dàn ý như sau:
Bạn đang xem bài: Phân tích bài thơ đồng chí hay ngắn gọn nhất
a – Phần mở bài
- Thể loại: Phân tích toàn bộ bài thơ đồng chí.
- Nội dung: Những người lính cùng xuất thân từ các vùng nông thôn nghèo khổ, nên dễ thân thiết tri kỷ với nhau. Họ lại có cùng cảnh ngộ ở quê hương hậu phương nên dễ trở thành đồng chí với nhau và chung vai sát cánh trong cuộc chiến.
- Tư liệu: Là toàn bộ nội dung bài thơ.
b – Thân bài
Đoạn 1: Nguồn gốc xuất thân của những người lính cùng từ các vùng nông thôn nghèo khổ “ nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá” nên họ dễ thân thiết, trở thành tri kỷ của nhau.
Giá trị câu thơ “ Đồng chí”.
Đoạn 2: Hoàn cảnh riêng, tình cảm quê hương thiết tha sâu năng của những anh bộ đội chân đất này. Cùng cảnh ngộ ở quê hương, hậu phương, gia đình nên họ trở thành đồng chí với nhau, cùng vượt qua mọi gian khổ, thiếu thốn.
Đoạn 3: Hình ảnh một đêm phục kích chờ giặc tới đầy thi vị: “ đầu súng trăng treo”. Ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc của anh bộ đội Cụ Hồ.
c – Kết bài
Các hình ảnh thực, chi tiết thực, chắt lọc từ cuộc sống gian khổ, thiếu thốn, khốc liệt tạo nên sức lay động lòng người về tình đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phân tích bài thơ đồng chí hay nhất
Thơ ca kháng chiến của ta tập trung khắc họa hình ảnh anh hùng nhân dân, đặc biệt là hình ảnh anh bộ đội và mối tình keo sơn gắn bó giữa những người lính với nhau trong những năm kháng chiến chống Pháp. Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu chính là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất.
Quê hương anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá.
….
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới.
Đầu súng trăng treo.
Nhà thơ Chính Hữu sáng tác bài thơ này vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến đang hết sức gay go quyết liệt. Bằng bút pháp hiện thực, nhà thơ đã chắt lọc từ cuộc sống gian khổ của những người lính tham gia chiến dịch Việt Bắc lúc ấy. Cảnh đi tắt đường rừng từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên bám địch.
Bộ đội chưa có dép, quần áo bà ba mỏng manh, trời đầy sương muối. Những đêm phục kích rải lá nằm rừng. Những cơn sốt rét dữ dội. Tình đồng đội lớn lao. Thấm thía với những chi tiết, những hình ảnh tươi rói của đời sống ấy, nhà thờ đã viết bài Đồng chí. Với lời thơ mộc mạc, tự nhiên nhưng gây được cho người đọc những suy tư sâu sắc, những xúc động sâu lắng…
Mở đầu bài thơ là những hình ảnh đầy khái quát:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Hai câu thơ cho thấy những người lính tham gia cuộc kháng chiến đều xuất thân từ nông thôn, họ không hề quen biết nhau trước đó. Họ đến từ những miền quê khác nhau như người từ miền biển ( nước mặn đồng chua), người từ vùng đồi núi ( đất cày lên sỏi đá). Nói chung, những chiến sĩ bộ đội này đều lớn lên từ cảnh nghèo khó, lam lũ, vất vả. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho họ từ xa lạ bỗng trở gần gũi nhau.
Anh với tôi, đôi người xa lạ.
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Tuy đến từ các quê nghèo khác nhau, chẳng hẹn quen nhau nhưng vì họ đã sống và chiến đấu gian khổ với nhau trong cùng một đội ngũ, những người lính này đã cùng chung một lý tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc, một ý chí, tình cảm, sự gắn bó càng thêm sâu đậm và thắm thiết hơn khi họ đắp chung chăn để trở thành đôi tri kỉ với nhau:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu.
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ.
Đoạn đầu của bài thơ được khép lại với một câu “ đồng chí” nhưng đã làm sáng thêm ý tình sâu sắc nhất của đoạn thơ, giải thích được vì sao những người lính ấy gắn bó khăng khít, thân thiết như máu thịt. Hai tiếng đồng chí tạo nên một âm vang ấm áp trong bài thơ có sức lay động tâm hồn người như một tiếng gọi thiết tha của đồng đội.
Tiếp theo mạch thơ, khi cái chăn đắp lại thì tâm sự họ mở rộng, những người lính ấy soi lòng vào nhau, anh hiểu tôi, tôi hiểu anh đến tận nỗi lòng sâu kín của mình. Nếu trong hai câu đầu của bài thơ đã cho biết những người lính này ra đi từ các miền đồng quê nghèo khổ nước mặn đồng chua, đồi núi hoang vu đất cày lên sỏi đá thì các câu thơ sau đây giúp ta hiểu thêm hoàn cảnh riêng của họ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày.
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.
Những người lính, những người đồng chí ấy đã ra đi chiến đấu trong tinh thần tự giác, tự nguyện. Dù gắn bó sâu nặng, thiết tha với mảnh rộng, căn nhà, nhưng họ đã sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi đánh giặc giữ nước. Tình cảm quê hương đáp lại đối với những người lính này thật là sâu nặng, tha thiết:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Nhà thơ dùng những hình ảnh tiêu biểu và phổ biến của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính gốc nông dân. Cảnh vật ở đây được nhà thơ tạo cho một linh hồn để hướng theo bước chân người lính.
Nhưng còn gì chân thực, gợi tả đầy xúc động bằng những câu thơ kế tiếp:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá.
Miệng cười buốt giá.
Chân không giày…
Những người lính gốc nông dân ấy có cùng chung cảnh ngộ ở quê hương, gia đình, tại đơn vị đã trở thành đồng chí với nhau lại thêm một lần nữa chia bùi sẻ ngọt với những thiếu thốn gian khổ trong cuộc sống chiến đấu khi ấy.
Đoạn thơ thứ hai kết thúc bằng câu thơ:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Câu thơ là một hình ảnh gợi tả của sự cảm thông ấm áp giải thích được nguồn sức mạnh nào khiến những người chiến sĩ này vượt qua được mọi sự gian khổ, thiếu thốn lúc bấy giờ.
Sau cùng là đoạn cuối với ba dòng thơ một khung cảnh thực:
Đêm nay rừng hoang sương muối.
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới.
Đầu súng trăng treo.
Đó là hình ảnh một đêm phục kích chờ giặc tới, tại một cách rừng hoang vắng đầy sương muối có một vầng trăng treo trên đầu ngọn súng của những người chiến sĩ đang đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới. Câu thơ cuối bài “ đầu súng trăng treo” bốn tiếng là một sự bất ngờ đầy thú vị. Thú vị biết bao và bất ngờ biết mấy khi nhận thấy súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ sao lại hòa quyện với nhau đẹp đến như thế. Một câu thơ bốn tiếng thơ nhưng đủ làm sáng lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc của anh bộ đội Cụ Hồ.
Toàn bộ bài Đồng Chí là các hình ảnh, các chi tiết chân thực, chắt lọc từ một hoàn cảnh đời sống đời sống chiến đấu gian khổ, khốc liệt được tác giả phát hiện ra chất thơ bay bổng làm lay động lòng người, tạo nên được những suy tư sâu sắc, những xúc động lắng sâu về tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
Lời thơ vừa mộc mạc, giản dị. vừa cô đọng hàm súc, có sức khái quát cao tiêu biểu cho phong cách thơ Chính Hữu.
Tham khảo thêm: Thuyết minh về con trâu ấn tượng nhất
Cảm nhận của em về bài thơ đồng chí
Hồi nhỏ tôi đã nghe hết bài thơ “ Đồng chí “ của Chính Hữu. Bài thơ rất quen mà lạ, rồi thuộc, chưa bao giờ xem lại bài thơ, gần đây nhân một buổi trò chuyện với sinh viên khoa văn trường Đại học Sư Phạm TPHCM tôi mới mở bài thơ ra xem. Mắt vừa chạm vào thơ, tôi đã thấy lạ. Thì ra lâu nay mình mới chỉ thưởng thức cái phần nhạc của thơ mà bỏ qua cái phần hình của nó.
Gần như đứng giữa bài thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong. Nữ trên là một mảng quy nạp, nửa dưới là một diễn dịch. Một kết cấu chính luận cho một bài thơ trữ tình.
Chủ đề đồng chí hiện lên trong từng cấu trúc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào thơ. Tôi với anh khi thì được xếp dọc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Khi thì xếp ngang:
Anh với tôi đôi người xa lạ.
Khi thì điệp điệp:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu.
Để đến đêm rét trùm chung một cái chăn thì nhập lại thành đồng chí. Và cái chăn đắp lại thì tâm tư mở ra. Họ soi vào nhau, anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày.
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay.
Giải thích sao đây hai chữ “ mặc kệ” có gì giống với thái độ này không?
Không! Nó đâu khinh bạc và phiêu du như thế. Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay từng gốc cột của ngôi nhà mình thì không còn chữ nào để diễn tả tình cảm thiết tha gắn bó của họ với gia đình. Nhưng trước hết họ đã vì nghĩa lớn. Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế và tựa vào nhau mà đi đến chiều cao này:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi bàn chân là một cặp đồng chí.
Đêm nay, rừng hoang sương muối.
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới.
Là một cặp đồng chí, và lãng mạn thay, súng và trăng cùng là một cặp đồng chí.
Đầu súng trăng treo.
Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được những cái cụ thể và gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng, gần và xa, cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.
Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực roi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ.
Kết luận: Đây là những bài văn mẫu phân tích bài thơ đồng chí, cảm nhận của em về bài thơ đồng chí hay và ấn tượng nhất.
Về trang chủ: TH Huỳnh Ngọc Huệ
Bài viết thuộc danh mục: Tổng hợp